doc truyen tieu thuyet đỗ đỗ
Đọc truyện tranh ️ Tôi Trở Thành Nhân Vật Phản Diện Trong Một Cuốn Tiểu Thuyết Chết Chóc ️ Chap mới nhất, ảnh đẹp chất lượng cao ️ Load Nhanh, không quảng cáo ️Đọc Full Sớm Nhất Tại Web
Đỗ đại nương thấy Liễu Ngọc Như lặng thinh liền từng bước ép sát, "Sao, muốn quỵt à?!" "Đỗ đại nương," Liễu Ngọc Như suy tư một lát liền phục hồi tinh thần rồi cất tiếng, "nếu đây là trách nhiệm của cửa hàng nhà ta thì dĩ nhiên nên bồi thường.
Nhân vật chính trong thiên truyện là cậu bé An 13, 14 tuổi. An sống cùng với cha mẹ tại thành phố. Sau ngày độc lập năm 1945, thực dân Pháp đổ bộ vào miền Nam Việt Nam. Gia đình An phải di tản, bỏ nhà để chạy giặc.
Tiểu thuyết Bão Táp Thành Đô. Thông qua mô tả ba gia đình tri thức cũ, tác giả Vũ Đức Nguyên đã cố gắng tài hiện lại một Hà Nội trong những năm tháng chống chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân, kết thúc bằng kỳ tích Điện Biên Phủ trên không chấn động
Những Cuốn Tiểu Thuyết Hay Nhất Của Diệp Lạc Vô Tâm. Những Cuốn Truyện Tiểu Thuyết Hay Nhất Của Đinh Mặc. 1. Mạc phụ hàn hạ. Nữ chính Mộc Hàn Hạ từng là công chúa sống trong nhung lụa cho đến một ngày tai họa ập đến không báo trước, cô một mình phải gánh chịu
mimpi melihat burung dalam sangkar menurut islam. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH VÕ HÙNG ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ PHẤN LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN NGHỆ AN - 2015 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH VÕ HÙNG ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ PHẤN Chuyên ngành Văn học Việt Nam Mã số LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học TS. LÊ THANH NGA NGHỆ AN - 2015 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU...........................................................................................................1 1. Lí do chọn đề tài.........................................................................................1 2. Lịch sử vấn đề............................................................................................2 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu khảo sát....................................4 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.............................................................4 5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................5 6. Cấu trúc của luận văn.................................................................................5 Chương 1. ĐẶC ĐIỂM NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ PHẤN........................................................................................................6 Khái niệm nhân vật, các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn ........................................................................................................................6 Khái niệm nhân vật...........................................................................6 Các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn.............................9 Bi kịch của nhân vật trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn.............................23 Nhân vật mang bi kịch đỗ vỡ các chuẩn mực giá trị......................23 Con người với tham vọng và sức mạnh đồng tiền..........................26 Bi kịch mất niềm tin.......................................................................27 Bi kịch “gần như là sống”...............................................................29 Hình tượng con người trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn..........................31 Con người bé nhỏ, tự ti, mặc cảm và vô dụng................................32 Con người cô đơn...........................................................................33 Con người tha hóa...........................................................................35 Tiểu kết chương 1.........................................................................................38 Chương 2. ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC TRONG TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ PHẤN.......................................................................................................39 1 Cấu trúc trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn trong xu thế chung của tiểu thuyết đương đại...................................................................................39 Cấu trúc văn bản tiểu thuyết.................................................................40 Sự phân bố không đồng đều giữa các chương................................40 Sự kết hợp của nhiều phong cách văn bản......................................47 Kết cấu cốt truyện.................................................................................48 Kết cấu dán ghép............................................................................48 Kết cấu song song...........................................................................51 Kết cấu tuyến tính...........................................................................52 Cấu trúc thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn...............54 Khái niệm thời gian nghệ thuật......................................................54 Thời gian sinh hoạt đời thường.......................................................55 Thời gian hồi tưởng........................................................................59 Thời gian ước lượng, tượng trưng..................................................63 Tiểu kết chương 2.........................................................................................65 Chương 3. ĐẶC ĐIỂM NGÔN TỪ VÀ NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ PHẤN....................................67 Sự độc đáo của lớp ngôn từ miêu tả......................................................67 Ngôn ngữ khắc họa chân dung nhân vật.........................................68 Sự uyển chuyển của lớp từ ngữ gợi cảm giác.................................72 Sự đa sắc thái trong giọng điệu.......................................................75 Kết cấu ngôn ngữ nghệ thuật tiểu thuyết của Đỗ Phấn.........................80 Hòa trộn lời kể, tả, bình luận..........................................................80 Hạn chế đối thoại, gia tăng độc thoại.............................................85 Nghệ thuật kể chuyện trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn...........................89 Người kể chuyện ngôi thứ ba- khách quan hóa câu chuyện...........89 Người kể chuyện ngôi thứ nhất - cái tôi thứ hai của nhà văn.........96 Tiểu kết chương 3.......................................................................................100 KẾT LUẬN..................................................................................................101 DANHMỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................104 1 2 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Tiểu thuyết được coi là "cỗ máy cái" trong văn học hiện đại xét ở khả năng khái quát hiện thực, khả năng phản ánh không chỉ đời sống của một, mà là là sự cộng sinh thể loại. Sự vận động của văn học Việt Nam đương đại cho thấy tiểu thuyết đã thực sự xứng đáng với những gì người ta đã từng nghĩ về nó, ở tư cách là một thể loại tiên phong trong sự khái quát hiện thực, trong sự làm mới đời sống văn học. Nghiên cứu tiểu thuyết chính là góp phần tìm hiểu diện mạo văn học Việt Nam đương đại, và những thành tựu của bản thân thể loại này. Là một họa sĩ, nhưng khi đến với văn chương, thể nghiệm, và rồi dần dần khẳng định ở thể loại tiểu thuyết, Đỗ Phấn, với một phong cách riêng, tạo được ít nhiều dấu ấn trong lòng bạn đọc. Nghiên cứu tiểu thuyết của Đỗ Phấn là góp phần tìm hiểu thêm một khía cạnh thú vị của sáng tạo văn học nó luôn mời gọi và mở lòng đón nhận, thậm chí hào phóng mang đến những thành tựu cho bất cứ ai có tài năng và đam mê. Đấy cũng là một điểm rất quan trọng của văn học trong thế giới phẳng ngày nay. Là một người sinh ra vào những năm năm mươi của thế kỉ trước. Bằng cái lịch lãm của một người xứ Bắc, bằng cái từng trải của một người đã rất quen thuộc với đời sống đô thị, chứng kiến sự vận động của đời sống kinh tế - xã hội ở trung tâm, và bằng con mắt quan sát của một họa sĩ, Đỗ Phấn đã bằng tiểu thuyết của mình, khái quát một cách khá sâu sắc và thành công nhiều mặt của đời sống, từ đó gửi đến người đọc những thông điệp có giá trị về cuộc sống, phận người... Nghiên cứu tiểu thuyết của Đỗ Phấn là góp phần chỉ ra những nét dáng nhất định trong trạng thái của tồn tại, của nhân sinh. 3 2. Lịch sử vấn đề Mặc dù xuất hiện chưa lâu, và cũng không phải bắt đầu khởi nghiệp từ văn chương như nhiều tác giả tiểu thuyết khác, nhưng các sáng tác, cũng như tiểu thuyết của Đỗ Phấn, đã thu hút được sự chú ý của nhiều người nghiên cứu. Tuy nhiên, theo khảo sát của chúng tôi, những đánh giá về các sáng tác của Đỗ Phấn nhưng phần lớn chỉ đánh giá ở mức độ riêng lẻ. Cụ thể đã có một số bài nghiên cứu về đề tài hiện thực đô thị trong tiểu thuyết... và tản văn. Về cơ bản, những nghiên cứu về Đỗ Phấn tập trung trên mấy nét cơ bản sau - Khẳng định những thành công của Đỗ Phấn ở phương diện kĩ thuật viết tiểu thuyết. Trần Nhã Thụy trong bài “Vừa đi vừa bịa” đăng trong tiểu thuyết Vắng mặt, Nxb Hội nhà văn, 2010 viết “Không còn hư thực lẫn lộn nữa mà là vắng mặt. Con người soi gương mà hốt hoảng không nhìn thấy khuôn mặt mình. Nhưng sản phẩm không “Nói triết”, Tác giả cũng loại trừ một lối viết ẩn dụ, hay huyền ảo, hay diễu cợt, hay luận đề... Tác giả không chỉ tập trung làm rõ những tính chất của sự thật bằng cách lấy hiện thực làm chất lửa và phổ lên đó là cái giọng buồn, cái nụ cười thầm của mình”. - Bài Đỗ Phấn giữa chúng ta của Đoàn Ánh Dương đăng trên trang http //vanchuong ra ngày 20 tháng 4 năm 2012 đã đưa ra một số đối sánh để làm rõ thêm trong sáng tác của Đỗ Phấn “... Nguyễn Việt Hà và Đỗ Phấn đều từ các lĩnh vực khá muộn màng đến với văn chương, mỗi người một kiểu, mỗi cách và đều độc đáo. Ở Nguyễn Việt Hà nó đọng lại ở cấu trúc nghệ thuật ngôn từ và Đỗ Phấn, nó lửng lơ ở ngoài cái cấu trúc ngôn từ nghệ thuật ấy .. Sáng tác của Đỗ Phấn không nhằm bày ra cho người đọc cấu trúc ngôn từ nghệ thuật, cũng không tham vọng cao đàm khoát luận về giá trị, tư tưởng, tự do, chân lý. Nó chỉ bày ra một sự thụ cảm cuộc sống một cách có nghệ thuật”. - Trong trang tác giả Hoài Nam viết “Nếu bạn đọc tìm ở tiểu thuyết Đỗ Phấn một câu chuyện thì sẽ không thấy, nhưng anh ta tạo ra cảm giác về đời sống”. Hoài Nam nói rằng, không nên tìm Đỗ 4 Phấn ở việc làm mới một cái gì cả, anh chỉ là người kể chuyện, kể lại những gì đã chứng kiến. Và như nhiều người vẫn nhận xét, dù nghiệp văn của Đỗ Phấn chỉ trung thành với một đề tài Hà Nội thì theo Hoài Nam “Mỗi cuốn sách của ông vẫn là một thế giới khác”. - Trên đây là một số ý kiến đánh giá về tiểu thuyết của Đỗ Phấn. Tuy còn ít nhưng cũng phần nào giúp chúng ta hiểu về đặc điểm tiểu thuyết Đỗ Phấn. Qua những ý kiến trên chúng tôi sẽ tiếp thu để bổ sung thêm trong luận văn của mình đồng thời cũng làm căn cứ để đánh giá về đặc điểm tiểu thuyết của Đỗ Phấn. Những năm gần đây, tiểu tuyết của Đỗ Phấn đã trở thành đề tài nghiên cứu ở một số trường đại học, đặc biệt là ở bậc đào tạo thạc sĩ. Luận văn Thạc sĩ đầu tiên được thực hiện ở trường đại học Vinh của học viên Trần Kim Dũng với đề tài Hiện thực đô thị trong tiểu thuyết Đỗ Phấn đã khảo sát một cách toàn diện về hiện thực đô thị đặc biệt là mối quan hệ giữa hiện thực đô thị và con người đô thị trong cơn xoáy lốc của cơm áo, gạo tiền. Luận văn Thạc sĩ thứ hai được thực hiện ở Đại học Sư phạm Huế là của học viên Tăng Thị Thúy Tiền với đề tài Cảm thức hiện sinh trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn, đã khai thác một cách có hệ thống về tiểu thuyết Đỗ Phấn dưới góc nhìn của chủ nghĩa hiện sinh. Trong luận văn này, những kiểu con người đã được tác giả khai thác một cách thấu đáo, đặc biệt là kiểu con người vong thân và kiểu con người tự lưu đày. Tác giả luận văn đã cho chúng ta thấy được sự tương đồng trong cảm hứng sáng tác và quan trọng hơn nữa là đem đến cho sự nhân bản cho con người, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, hay xã hội nào thì quyền được sống đúng với bản chất của con người là quyền cơ bản nhất. Khi lựa chọn đề tài này, chúng tôi đã khảo sát những văn bản trên và đã mạnh dạn thực hiện đề tài với hy vọng đóng góp một phần cho việc hệ thống hóa đặc điểm tiểu thuyết của Đỗ Phấn và nhìn nhận vai trò Đỗ Phấn trong diện mạo tiểu thuyết nước nhà đương đại. 5 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu khảo sát Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đặc điểm tiểu thuyết của Đỗ Phấn Phạm vi tư liệu khảo sát Để thực hiện đề tài này, chúng tôi khảo sát toàn bộ 7 cuốn tiểu thuyết của nhà văn Đỗ Phấn Vắng mặt, NXB Bách Việt, Hà Nội. Rừng người, NXB Phụ Nữ, Hà Nội. Chảy qua bóng tối, NXB Trẻ, Hà Nội. Con mắt rỗng, NXB Văn Học, Hà Nội. Rụng xuống ngày hư ảo, NXB Trẻ, Hà Nội. Ruồi là ruồi, NXB Trẻ, Hà Nội. Gần như là sống, NXB Trẻ, Hà Nội. Ngoài ra còn khảo sát thêm truyện vừa Dằng dặc triền sông mưa, NXB Trẻ, Hà Nội 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu các tiểu thuyết của Đỗ Phấn, chỉ ra những đóng góp của nhà văn trong việc khái quát bức tranh đời sống, cũng như đóng góp của ông cho tiểu thuyết Việt Nam đương đại trên một số bình diện nghệ thuật. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn hướng đến ba nhiệm vụ chính Tìm hiểu đặc điểm của thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn. Nghiên cứu tiểu thuyết của Đỗ Phấn trên bình diện cấu trúc. 6 Nghiên cứu đặc điểm ngôn từ và nghệ thuật kể chuyện trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp hệ thống - cấu trúc - Phương pháp so sánh đối chiếu - Phương pháp phân tích tổng hợp - Phương pháp so sánh 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, đề tài của chúng tôi được triển khai thành 3 chương Chương 1 Đặc điểm nhân vật trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn Chương 2 Đặc điểm cấu trúc trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn Chương 3 Đặc điểm ngôn từ và nghệ thuật kể chuyện trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn 7 Chương 1 ĐẶC ĐIỂM NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ PHẤN Khái niệm nhân vật, các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn Khái niệm nhân vật Nhân vật văn học đóng vai trò trung tâm trong tác phẩm văn chương. Nhân vật trong tác phẩm văn chương chính là "bản sao" của hình ảnh con người và cuộc sống con người. Đó là tiếng nói của thế giới nội tâm con người và cũng là tấm gương phản chiếu xã hội loài người nên không phải ngẫu nhiên mà M. Gorky đã từng phát biểu rằng “văn học là nhân học”. Theo Từ điển thuật ngữ văn học Nhân vật văn học được định nghĩa là “Con người cụ thể được miêu tả trong các tác phẩm văn học. Nhân vật văn học có thể có tên riêng Tấm, Cám, chị Dậu, anh Pha, cũng có thể không có tên riêng như “thằng bán tơ”, “một mụ nào” trong Truyện Kiều. Trong truyện cổ tích, ngụ ngôn, đồng thoại, thần được đưa ra để nói chuyện với con người. Khái niệm nhân vật văn học có khi được sử dụng như một ẩn dụ, không chỉ một con người cụ thể nào cả, mà chỉ một hiện tượng nỗi bật trong tác phẩm. Chẳng hạn có thể nói nhân dân là nhân vật chính trong Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, đồng tiền là nhân vật chính trong Ơgiênni Grăngđê của Bandắc. Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật đầy tính ước lệ, không thể đồng nhất nó với con người có thật trong đời sống. Chức năng cơ bản của nhân vật văn học khái quát tính cách của con người. Do tính cách là một hiện tượng xã hội, lịch sử, nên chức năng khái quát tính cách của nhân vật văn học cũng mang tính lịch sử. trong thời đại xa xưa, nhân vật văn học của thần thoại, truyền thuyết thường khái quát năng lực 8 và sức mạnh của con người Nữ Oa đội đá vá trời, Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra trăm trứng…. Ứng với xã hội phân chia giai cấp, nhân vật của truyện cổ tích lại khái quát các chuẩn mực giá trị đối kháng trong quan hệ giữa người và người như thiện với ác, trung với ninh, thông minh với ngu đần… Vì tính cách là kết tinh của môi trường, nên nhân vật văn học là người dẫn dắt độc giả vào các thế giới khác nhau của đời sống. Nhân vật văn học còn thể hiện quan niệm nghệ thuật và lý tưởng thẩm mĩ của nhà văn về con người. Vì thế, nhân vật luôn gắn chặt với chủ đề tác phẩm. Nhân vật văn học được miêu tả qua các biến cố, xung đột, mâu thuẫn và mọi chi tiết các loại. Đó là mâu thuẫn của nội tâm nhân vật, mâu thuẫn giữa nhân vật này với nhân vật khác, giữa tuyến nhân vật này với tuyến nhân vật kia. Cho nên, nhân vật luôn được gắn liền với cốt truyện. Nhờ được miêu tả qua xung đột, mâu thuẫn, nên khác với hình tượng hội họa và điêu khắc, nhân vật văn học là một chỉnh thể vận động, có tính cách, được bộc lộ dần trong không gian, thời gian, mang tính chất quá trình. Từ những góc độ khác nhau có thể chia nhân vật văn học thành nhiều kiểu loại khác nhau. - Dựa vào vị trí đối với nội dung cụ thể, với cốt truyện của tác phẩm, nhân vật văn học được chia thành nhân vật chính và nhân vật phụ. - Dựa vào đặc điểm của tính cách, việc truyền đạt lí tưởng của nhà văn, nhân vật văn học được chia thành nhân vật chính diện và nhân vật phản diện. - Dựa vào thể loại văn học, ta có nhân vật tự sự, nhân vật trữ tình, nhân vật kịch. - Dựa vào cấu trúc hình tượng, nhân vật được chia thành nhân vật chức năng hay mặt nạ, nhân vật loại hình, nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng” [19; 202 - 203]. Từ những tiêu chí trên về nhân vật, khi soi chiếu với toàn bộ tiểu thuyết Đỗ Phấn, chúng ta có thể nhận thấy rằng, nhân vật trong tiểu thuyết 9 Đỗ Phấn vẫn mang những tiêu chí về nhân vật như chúng ta lâu nay vẫn quan niệm. Tuy nhiên, có những đóng góp không nhỏ của ông trong việc đem đến một cách nhìn khác về nhân vật. Nhân vật của ông được xây dựng dựa trên sự cảm nhận và sự ghép nối của chính người đọc. Khi xây dựng nhân vật, đặc biệt là nhân vật chính, Đỗ Phấn xóa nhòa gần như toàn bộ chân dung của nhân vật, ông chỉ dừng lại ở việc gợi chứ không tả. Chính vì thế, nhân vật của ông mang tính biểu tượng rất cao, đó có thể là một ai đó ta có thể bắt gặp bất cứ đâu, hoặc đó cũng có thể là chính ta, hay đó cũng chính là một phần của nhà văn. Trong 7 cuốn tiểu thuyết của Đỗ Phấn mà chúng tôi khảo sát thì, trừ hai cuốn Ruồi là ruồi và Chảy qua bóng tối, 5 nhân vật trong 5 cuốn tiểu thuyết còn lại của ông đều có chung một kiểu nhân vật đó là những người đàn ông trung niên độc thân, họ đều là trí thức, họ có cuộc sống thân phận, bé nhỏ và tự nhân thấy mình như phần thừa của xã hội. Phần nhân vật còn lại trong tiểu thuyết của ông viết về những thị dân sống ở Hà Nội mà cuộc sống của họ từng ngày qua là những chật vật mưu sinh đầy khốn khó và đánh đổi. Qua hệ thống nhân vật đầy tính biểu tượng đó, chúng ta nhận thấy được quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn. Đó là những thân phận cô đơn, xa lạ với cuộc đời thực. Họ là những con người mang thương tích và bi kịch. Từ những tiêu chí trên và thông qua việc khảo sát toàn bộ tiểu thuyết của nhà văn Đỗ Phấn, ở chương này, chúng tôi khảo sát các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết của ông để từ đó mà khái quát nên những kiểu con người trong tiểu thuyết của ông. Thông qua đó, chúng ta thấy được sự “hạnh phúc trong bất hạnh” [23] của nhà văn trong việc tái hiện và thấu thị được nỗi đau của kiếp nhân sinh và cái nhìn hết sức tinh tế và chân thực của ông trong việc thức tỉnh lương tri con người. 10 Các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn Những người đàn ông trí thức trung niên độc thân Như chúng tôi đã trình bày ở trên, thì 5 trong 7 cuốn tiểu thuyết của Đỗ Phấn chúng ta thấy có hiện tượng lặp lại kiểu nhân vật chính là những người đàn ông trí thức trung niên độc thân. Tuy nhiên, kiểu nhân vật này không đem đến cho người đọc sự nhàm chán mà ngược lại, đem đến cho người đọc một cách nhìn khác về thân phận con người. Kiểu nhân vật này xuất hiện trong tiểu thuyết Đỗ Phấn thường ở độ tuổi từ 45 đến 55, họ đều là thành phần trí thức với những công việc và tình trạng hôn nhân như sau TT Nhân vật Tình trạng hôn nhân Tiểu thuyết Nghề nghiệp 1 Vũ Độc thân Vắng mặt Họa sĩ 2 Văn Độc thân Rừng Người Kỹ sư kinh tế xây dựng 3 Thế Hoàng Độc thân Con mắt rỗng Họa sĩ 4 Thành Gần như là sống Kiến trúc sư, họa sĩ 5 Đức Ly hôn Độc thân Rụng xuống ngày hư ảo Nhà báo Theo quan niệm của người Phương Đông thì độ tuổi từ 40 đến 50 là độ tuổi chính chắn của cuộc đời mỗi con người thông qua tuyên bố gần như là mệnh đề của Khổng Tử “tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập tri thiên mệnh” ba mươi tuổi thì lập thân, bốn mươi tuổi thì hết nghi hoặc, có nghĩa là chính chắn về mặt tri thức, năm mươi tuổi biết được mệnh trời, có nghĩa là đã biết được sự thành bại. Tuy nhiên, cả năm nhân vật mà chúng tôi khảo sát họ gần như chênh vênh trong cuộc đời. Dường như có một nhãn quan chung cho cả năm nhân vật trong cả năm cuốn tiểu thuyết mà chúng tôi khảo sát. Có khác ở đây là họ diễn vai của mình cho từng nhân vật, từng cái tên khác, từng công việc khác. Để rồi khi 11 đối diện với chính mình họ cũng có những nỗi đau như thế, có những nỗi buồn như thế, thậm chí đến cả sở thích ăn uống, làm tình cũng giống nhau. Họ là những mảng khác nhau của một quan niệm, đó là những nhân vật mang trên mình nỗi đau của tuổi hay nói đúng hơn là nỗi đau của thời gian. Độ tuổi của nhân vật có lẽ cùng độ tuổi với nhà văn Đỗ Phấn. Thời gian đã làm cho họ chênh vênh trong cuộc đời của họ. Họ phải chứng kiến những cơn biến động của lịch sử, và đương nhiên đó cũng đồng thời là biến động của văn hóa. Cơn lốc của lịch sử cuốn theo cuộc đời và số phận của họ. Điều đặc biệt ở đây là họ đã từng chứng kiến những năm tháng thanh bình của một Hà Nội lịch lãm trước chiến tranh, họ đã chứng kiến nỗi đau khi phải rời xa Hà Nội trong những ngày có chiến sự, rồi họ lại phải chứng kiến những mất mát về cả vật chất lẫn tinh thần, cả máu và nước mắt trong cuộc chiến “Anh đã sống qua những tháng năm buồn bã của cuộc đời khi đất nước có quá nhiều kẻ thù. Chứng kiến bom rơi đạn nổ suốt dọc chiều dài gầy nhẳng của cái hình chữ S trên bản đồ. Một hình chữ S thương khó mịt mù bom đạn trong suốt hai mươi năm liền. Bây giờ mới thấy sợ. Và chán ghét những đầu óc thù hằn” [31; 41]. Những năm tháng bao cấp không phải chịu cảnh mưa bom bão đạn nhưng cuộc sống khốn khó của thời bao cấp đã làm mất đi phần thể diện trong con người họ. Rồi sau đó họ lại phải chứng kiến sự mất mát về văn hóa của cả một ngàn năm văn hiến trong cuộc chạy đua vũ bão của cơ chế thị trường. Rồi cuối cùng, họ bị bỏ lại trong cuộc chạy đua vĩ đại đó. Và đương nhiên họ cũng không còn là chính họ nữa. Khi đọc những trang văn của Đỗ Phấn, chúng ta không khỏi không liên tưởng đến một thế hệ nhà văn trở về từ cuộc thế chiến thứ nhất trong văn chương Hoa Kỳ, lớp nhà văn mà Hemingway đã từng gọi là “thế hệ mất mát”. Họ chiến thắng trong chiến trận, nhưng họ bại trận trong chính cuộc đời họ. 12 Họ trở về đời thực để rồi ngơ ngác trước sự “lạ phố, lạ nhà” “Xã hội đổi thay đến không ngờ, những gì tôi được học để xây dựng nó hình như không dùng đến nữa. Thậm chí còn khó mà tưởng tượng ra hình ảnh thật sự dù rằng nó vẫn thường xuyên được gia công hoàn thiện trên sách vở tuyên truyền. Nó như thế nào? Ai? Và đi đến đâu? Tôi cứ như chiếc nan hoa gẫy văng ra khỏi vành bánh xe đạp. Để biết đoạn dây thép ấy từ đâu ra cũng không phải là chuyện dễ với lớp trẻ hôm nay nữa rồi” [34; 365]. Độ tuổi của nhân vật đã nói lên rằng họ đã thuộc về một nền văn hóa khác, những chuẩn giá trị khác. Họ đã “lỗi thời” với những gì mà họ đang đối mặt hàng ngày. Về công việc, tất cả trong số họ đều là những công chức làng nhàng, thất nghiệp hoặc gần như thất nghiệp. Điều đặc biệt ở đây là truyện được kể với điểm nhìn bên trong nên sự ý thức về công việc cũng như những phản ứng về công việc của nhân vật được tác giả thể hiện hết sức chân thật và tinh tế. Đối với một công chức bình thường, độ tuổi 40 đến 55 là độ tuổi đánh giá thành bại của một người trong công việc. Họ sẽ được cất nhắc ở một vị trí cao nhất mình có thể có và nếu không sẽ chờ để nghỉ hưu. Đây cũng là giai đoạn hết sức chênh vênh trong cuộc đời công chức của một con người, bởi hai lẽ hoặc là họ sẽ được cất nhắc lên vị trí cao, hai là ngược lại nằm trong diện giảm biên chế. Xét về đời sống công chức, các nhân vật chúng ta đang khảo sát rơi vào trường hợp thứ hai, tuy nhiên họ vẫn tiếp tục làm việc và thậm chí gặt hái được nhiều thành công trong công việc cho chính bản thân họ và họ vẫn ổn đối với chính họ và trong con mắt của những đồng nghiệp và thị dân khác. Họa sĩ Vũ trong Vắng mặt đã rất mặc cảm về chuyện bỏ việc ra làm ngoài bởi theo quan niệm của thời đó “không có định nghĩa trí thức ngoài quốc doanh. Đi lao động kiếm ăn mà cũng lén lút vụng trộm. Và mang tiếng xấu. Làm ngoài” [29; 40]. Sự mặc cảm này đã trở nên uất ức, khổ sở khi mà 13 nhân vật phải che giấu việc không có việc làm của mình như một người có tội “Mi giấu kín chuyện bỏ việc với bà con dân phố. Bằng một phương pháp rất cũ nhưng đầy công hiệu. Sáng sáng vẫn đều đặn dắt xe đạp ra đường. Ăn sáng, uống cà phê ở một quán xa nhà. Không người quen biết. Cái cảm giác như một kẻ vắng mặt giữa chốn đông người nhiều khi làm mi bị ức chế. Ê chề. Chán nản. Làm nhân dân đã là thứ bậc cuối cùng trong xã hội. Nhưng mi có vẻ như còn dưới nhân dân một bậc nữa. làm nhân dân một mình” [29; 41]. Tuy nhiên, với những cố gắng của mình cộng với sự giúp đỡ của bạn bè, Vũ cũng đã trở thành họa sĩ có danh tiếng. Kỹ sư Văn trong Rừng người sau mười năm làm công chức nhà nước “tấm bằng kinh tế xây dựng chẳng dùng vào việc gì. Anh làm việc ở phòng tuyên truyền xí nghiệp đồ gỗ. kẻ khẩu hiệu an toàn lao động và nội quy sản xuất cho các phân xưởng. May mắn ngày ấy chưa cải tiến chữ quốc ngữ như bây giờ. Nếu những cái cách như vậy sớm lên khoảng mười năm, anh đã được liệt vào diện tái mù” [31; 37]. Rồi anh cũng xin chuyển công tác, nhưng anh không lường trước được những rủi ro đang đợi anh đó là “cái cổng sau” của cơ quan mới. Rồi cũng như họa sĩ Vũ, anh chọn con đường làm ngoài. Tuy nhiên, cũng như họa sĩ Vũ, anh cũng có sự may mắn và được sự giúp đỡ của người bạn tốt bụng nên công việc cũng suôn sẽ và nuôi sống anh trong suốt phần còn lại của cuộc đời. Thành trong Gần như là sống cũng chung số phận với hai nhân vật trên, mặc dầu tốt nghiệp chuyên ngành kiến trúc nhưng công việc của anh lại là quản lý hồ sơ. Một công việc chẳng liên quan gì đến chuyên môn. Không những thế, đời sống công chức nhạt nhẽo, đố kỵ, đấu đá đã đưa anh đến quyết định là phải thay đổi cuộc đời của mình, thay đổi để là chính anh. Rồi anh trở thành một họa sĩ bất đắc dĩ. Hội họa đem đến cho anh niềm vui và niềm ham sống. Hội họa làm sống dậy trong anh những ký ức về cảnh vật và con người, 14 giúp anh níu giữ những khoảnh khắc bình yên, những góc khuất tưởng như mịt mù quên lãng trong những năm tháng bon chen cơm áo và lối sống nhạt nhẽo tình người đã làm cho anh tưởng rằng là đã quên. Với nhân vật này, nghệ thuật dường như đã cứu xét một phần cuộc đời anh. Trong Con mắt rỗng, lần đầu tiên Đỗ Phấn xây dựng một chân dung nghệ sĩ trọn vẹn. Hơn thế nữa, Thế Hoàng là nghệ sĩ có bản lĩnh và ý thức được trách nhiệm của nghề nghiệp và quan trọng hơn, anh có đam mê. Sự đam mê cộng với tài năng đã đem đến cho anh một vị trí và thành công trong sự nghiệp. Anh là họa sĩ sống hết mình với đam mê và công việc. Đó là tất cả ý nghĩa đời sống của anh. Khi đã không còn đam mê nữa, anh chấp nhận từ bỏ cuộc sống. Đức trong Rụng xuống ngày hư ảo, mặc dầu đã năm mươi tuổi rồi nhưng vẫn chịu thân phận nhà báo hợp đồng. Tuy nhiên với sự sắc sảo trong công việc cộng với những kinh nghiệm của một nhà báo lâu năm đã đem lại cho ông một cuộc sống công chức tạm ổn, cũng ít nhiều “dăm ba bữa nhậu” với bạn bè. Cũng như các nhân vật đàn ông trung niên trí thức độc thân trong các tiểu thuyết trên mà chúng tôi khảo sát, Đức cũng chẳng mảy may tìm được sự yêu thích trong công việc nhà nước của mình, thậm chí là chán ghét và ghê sợ bởi những mưu mô và khuất tất thậm chí là vô đạo đức của cánh nhà báo. Thế nhưng, hắn muốn nghỉ việc người ta cũng không cho hắn nghỉ vì những quan hệ của hắn thậm chí ngay cả khi hắn bị ốm và có vấn đề về thần kinh. Chỉ đến khi hắn bị điên hẳn và kết thúc phần đời còn lại trong nhà thương điên thì chính thức hắn mới được nghỉ việc. Trong quan niệm của người Việt, thành công của một con người thể hiện ở ba phương diện công việc, tài sản và có gia đình riêng. Điều đó đã thể hiện trong câu ca dao từ ngàn xưa rằng “tậu trâu, dựng vợ, làm nhà/có ba thứ đó mới ra con Người”. Đó là trách nhiệm và cũng là thước đo giá trị của 15 người đàn ông. Thế nhưng trong năm nhân vật đàn ông mà chúng tôi khảo sát, cả năm nhân vật đều độc thân, mà lại độc thân ở tuổi xế chiều. Năm nhân vật này trong tiểu thuyết Đỗ Phấn đều mất niềm tin vào gia đình, hoặc tự cảm thấy mình không phù hợp với cuộc sống gia đình. Nhân vật Vũ trong Vắng mặt gần như mất hẳn niềm tin vào hạnh phúc gia đình “Từ lâu, mi đã không còn nghĩ đến một hạnh phúc theo kiểu gia đình. Nó cũng đầy rẫy những giả tạo chán chường. Như cuộc sống gia đình thằng Khoa, thằng Hà”. Cuộc sống vật vã cơm áo gạo tiền, những người vợ không chung thủy và những đứa trẻ con hư hỏng, mè nheo đã làm cho Kỹ sư Văn trong Rừng người thấy hôn nhân chỉ là sự ràng buộc và tiềm ẩn những nguy cơ giết mòn tình yêu và cả sự tự do, đó là một “Tưởng tượng ra cuộc hôn nhân với nàng, anh biết chắc phải đánh đổi những tháng năm vui vẻ bình an này lấy một cuộc sống gia đình mè nheo cơm áo cãi cọ như những người thành phố khác” [31; 41]. Nếu như sự tồn tại của con người chỉ là những bản ghi, những “sự việc” và con số, thì những giá trị về hôn nhân gia đình nó trở thành mô hình một mô hình đơn giản đến phũ phàng “mô hình hạnh phúc thị dân nhạt phèo như nó đã từng. Nó nhạt đến mức không cần dùng đến trí tuệ. Thức dậy quần quần áo áo con đực cõng con cái ra khỏi nhà trên chiếc xe máy mò lên phố ăn sáng uống cà phê. Ăn uống phải chia nhau cái cảm giác không vừa lòng bởi mỗi con có một ý thích khác. Chiều về chia nhau đón con tắm rửa cho chúng và ngồi vào mâm cơm vào lúc tám giờ tối. Cơm xong con đực nghiến răng ngồi xem phim tình cảm cảm dài tập của Hàn Quốc cùng con cái. Sau hai lần chảy nước mắt vì cuộc chia ly trên màn hình con cái bắt đầu ngáp vặt. Cả hai lên giường vùi mình vào giấc ngủ không cần đến mộng mơ. Gần sáng dậy làm một phát vội vàng không cảm xúc. Ngày nào cũng thế. Không cãi cọ chửi bới nhau là may lắm rồi” [32; 19].
doc truyen tieu thuyet đỗ đỗ